Connect with us

Văn mẫu 12

Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”

A. MỞ BÀI

Nguyễn Minh Châu là nhà văn quân đội, trước 1975 là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Sau khi đất nước thoát cảnh chiến tranh bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển hoà bình, đòi hỏi văn học phải có sự đổi mới, tư duy, ông trở thành “người mở đường tinh anh và tài năng” cho công cuộc mới ấy. Sáng tác của ông chuyển sang cảm hứng thế sự với đề tài đạo đức và triết lí nhân sinh sậu sắc.

Chiếc thuyền ngoài xa được viết vào tháng 8-1983. Ban đầu in trong tập “Bến quê”. Sau này Nguyễn Minh Châu đã lấy truyện ngắn này để làm tên chung cho một tập, xuất bản 1987.

B. THÂN BÀI

1. Tóm tắt: Câu chuyện có thể được tóm tắt như sau:

Phóng viên Phùng được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh để bổ sung vào một bộ ảnh lịch. Anh đến một vùng phá ven biển miền Trung, nơi ngày xưa là bãi chiến trường, nơi Phùng đã từng cầm súng. Phùng chụp được nhiều bức nhưng mãn nguyện nhất là cảnh về một chiếc thuyền đang thu mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên.

Bức ảnh nghệ thuật rất tình cờ ghi lại chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm đẹp như một bức tranh cổ. Đây là cơ hội không dễ gì gặp được trong đời. Chỉ một khoảnh khắc bấm máy là Phùng đã ghi lại tấm hình “đẹp tuyệt vời của ngoại cảnh”.

Khi thuyền vào bờ, Phùng chứng kiến cảnh hai vợ chồng làng chài dẫn nhau lên bờ, đi vào bãi xác xe tăng. Người chồng lấy dây lưng đánh tới tấp, còn người vợ im lặng chịu đòn.

Lần sau, chứng kiến cảnh ấy, Phùng can thiệp và bị đánh. Việc này đã đưa ra toà án. Bạn Phùng là chánh án Đẩu đã quyết định cho hai người li hôn, không ngờ chị làng chài van xin Đẩu đừng bắt chị bỏ chồng. Họ không thể hiểu được “nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”, “dù hắn man rợ, tàn bạo”. Phùng và Đẩu hiểu ra nhiều điều về cuộc sống, về nghệ thuật.

Ý nghĩa: Đặt tên truyện Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu muốn nói rằng con thuyền nghệ thuật mang vẻ đẹp tuyệt đỉnh nhưng nó quá xa rời đời thực, đầy ngang trái nghịch lí. Nghệ thuật phải gắn với đời, phản ánh trung thực cuộc đời, và phải biết quan tâm tới số phận con người.

2. Trước hết câu chuyện đã cho thấy hai phát hiện đối lập của người nghệ sĩ nhiếp ảnh

Sau bao nhiêu lần thất bại và không vừa ý với một bức ảnh nghệ thuật nằm trong chủ đề bộ ảnh lịch thì Phùng bỗng được trời cho một tấm ảnh mà anh hoàn toàn thoả mãn. Đó là “một bức tranh mực tàu của danh hoạ thời cổ. Tấm ảnh như một kiệt tác của hoạ sĩ vẽ tranh. Trong đôi mắt nhà nghề của hoạ sĩ tạo hình, Phùng mô tả tấm ảnh – bức tranh tuyệt mĩ. Đó là mũi thuyền thấp thoáng trong sương mù như sữa có pha ánh hồng, người lớn, trẻ con ngồi im phăng phắc đang chờ đợi lên bờ, cái mắt lưới, hai chiếc gọng vó, y hệt cánh con dơi…

Cái đẹp ấy khiến Phùng bối rối, trái tim như có ai bóp vào. Một câu hỏi tự vấn: “Chẳng biết ai lần đầu đã nghĩ ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức”..

Phát hiện thứ hai làm cho Phùng và người đọc choáng váng, bất ngờ là khi con thuyền cặp bờ chỉ có hai người bước xuống. Vợ chồng người thuyền chài lùi lũi đi vào một bãi xe tăng, không phải ngẫu nhiên mà họ dựng lại ở một chiếc xe rà phá mìn, màu vàng tươi to gấp đôi một chiếc xe tăng. Người chồng đã đánh đập vợ và bất ngờ một đứa con đã chạy ra ngăn.

Cứ tưởng rằng đó chỉ là một cảnh tượng không đẹp. Ai ngờ những ngày sau, cảnh kì quái kia lại tái diễn. Hoá ra sau cái đẹp bức ảnh là bao nhiêu ngang trái nghịch lí của đời thường. Ngoại cảnh đi ngược với số phận cực nhọc tăm tối của con người.

Thực ra nhìn qua ta thấy hai phát hiện của Phùng là ngược chiều. Nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy hai bức tranh có một logic nhân quả. Bức tranh tuyệt đích mà Phùng chụp được đã ẩn chứa bên trong nhiều dự báo không tuyệt đỉnh.

Những con người như những pho tượng đúc mỏi mòn nhìn bờ, bức ảnh được nhìn qua “mắt lưới” và lưới ấy lại dang cánh như con dơi. Những ẩn dụ ấy cho ta thấy phía sau cái đẹp là những điều không bình thường

3. Các nhân vật

(1) Người chồng.

Người chồng trong tác phẩm vốn xuất phát từ một gia đình làng chài. Chàng trai ấy trước đây rất hiền lành không bao giờ có những đối xử nhẫn tâm với vợ con. Theo hồi ức của người vợ thì cả hai yêu nhau thật lòng, cả hai đã có những giây phút sống trong cảnh gia đình êm ấm, thuận hoà. Sự đổi tính của người chồng gốc rễ sâu xa khi hoàn cảnh đã có những nhân tố tiêu cực. Trong một không gian rất hẹp là chiếc thuyền chài choi vơi nơi biển cả, gia đình này quá đông đúc nhân khẩu. Cả một đàn con trên dưới chục đứa phải trông chờ vào sức lực lao động của người đàn ông. Biển không phải lúc nào cũng cho họ nhiều tôm lắm cá. Bế tắc, bất lực, sự tự ti của người chủ gia đình đã khiến cho người chồng thuyền chài thành kẻ vũ phu. Hắn dắt vợ vào bãi xe tăng, hắn lạnh lùng rút dây lưng ra. Rồi hắn đánh tới tấp vào lưng người đàn bà rách rưới. Tuy nhiên, trong cái nhìn “thế sự đạo đức” Nguyễn Minh Châu đã lưu ý chúng ta: mỗi lần đánh lão đều “rên rỉ đau đớn: mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Càng trút tức giận vào người phụ nữ sinh ra mười miệng ăn kêu đói, lão đàn ông càng thấy nặng lòng. Lão đi về thuyền với “tảng lưng khum khum vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn”.

(2) Người đàn bà thuyền chài vô danh chính là nhân vật trung tâm.

Với con mắt thế sự, nhân vật phụ nữ của Nguyễn Minh Châu sau 1975 không đẹp từ gót chân hồng cho đến mái tóc dài như nàng Nguyệt ở “Mảnh trăng cuối rừng” mà mang chất liệu của cuộc sống vốn thô ráp xù xì. Người đàn bà vẻ ngoài rất xấu xí, thân hình thì “cao lớn với sự thô kệch” khuôn mặt thì rỗ chằng rỗ chịt – vết tích của trận đậu mùa. Cái mặt ấy bây giờ thất thần nhớn nhác mệt mỏi khiến cho ta càng thấy ái ngại. Chị có “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”…

Người phụ nữ bất hạnh bởi ông trời và bởi những năm tháng lam lũ cực nhọc. Kì lạ nhất trong quan hệ vợ chồng ở người phụ nữ này là chị bị đánh đập hành hạ thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày trận nặng”. Những lằn roi trút xuống thân thể chị thật tàn bạo. Chị phải cam nhẫn nhục “Cơn giận như lửa cháy của chồng”. Phùng vô cùng ngạc nhiên với cách chủ động đón nhận roi đòn của người phụ nữ. Chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn.

Không phải tăm tối dốt nát đến mức không ý thức được quyền sống bị xâm phạm, cũng không phải bị đòn roi nhiều tới mức không biết đau, người đàn bà này đã ý thức được thân phận. Chị nhận sự lựa chọn này mà không có quyền lựa chọn khác. Đã chấp nhận thân phận nghĩa là chấp nhận những trận đòn như quy luật.

Khi đứa con biết được cảnh tình khổ nhục, dữ dằn lao vào cứu mẹ thoát khỏi roi đòn của cha thì người đàn bà này đã ôm chầm lấy con, đã chắp tay vái lấy vái để đứa con mình. Quả là hiện tượng hiếm có trong đời. Chỉ có thể khi mắc những lỗi lầm ghê gớm, khi bị cuộc đời làm cho đảo điên thì những đứa con trở về với cha mẹ mới có hành động vái lạy cha mẹ xin tha tội.

Nguời mẹ ấy đã van xin con, đã lã chã những dòng nước mắt vì con. Chồng đánh đập tơi bời, chị không khóc. Thế nhưng, khi con chứng kiến cuộc hành hạ của cha với mẹ, người phụ nữ này đã khóc vì con. Chị đã rất tủi hổ, nhục nhã và thấy mình có tội với con. Đứa trẻ ngây thơ cho nên và không bao giờ nên chứng kiến cảnh nghịch lí kì quặc của cuộc đời. Vợ chồng chị đã làm tổn thương tâm hồn ngây thơ của con trẻ. Ở đây người phụ nữ không cảm nhận mình là nạn nhân mà đồng tội nhân. Với chị, mình gây nên những vết thương tâm hồn rất dễ làm thui chột nhân cách đứa trẻ.

Có lẽ tình huống gây bất ngờ nhất cho người đọc và hiển nhiên nó tạo giá trị tư tưởng cho tác phẩm chính là cuộc đối chất và hành động người đàn bà hàng chài. Nó làm choáng váng vị chánh án đáng nể, vị phóng viên phụng thờ cái Đẹp đầy nhân hậu.

Người đàn bà xuất hiện ở toà án ban đầu làm cho ta tội nghiệp, thương hại. Hết lạy con đẻ của mình bây giờ lại chắp tay vái “con lạy quý toà”.

Sau khi thành thật mô tả gia cảnh của mình, người nhận trận đòn mà chồng hành hạ, người đàn bà đã khiến Phùng và Đẩu phải giật mình, kinh tởm bởi một gã đàn ông vũ phu. Người lính đã từng vào sinh gia tử, đã từng chứng kiến bao trái ngang. Vậy mà, cả hai không có ý định muốn hoà giải, muốn tìm ra một con đường sum họp cho gia đình người thuyền chài này hạnh phúc. Kinh nghiệm xử án lâu năm đã nói với Đẩu và anh quyết định điều mà anh không hoàn toàn yên tâm. Hãy chặt đứt xiềng xích cho người đàn bà thoát khỏi thân phận nô lệ. Còn hi vọng gì một người đàn ông lấy việc hành hạ vợ con làm quy luật, làm lẽ sống…

Đẩu đã ra quyết định cho người đàn bà được quyền li dị chồng. Thật bất ngờ, người phụ nữ kia thà chấp nhận toà xử mình, phạt tù mình còn hơn là bắt bỏ chồng.

Cuộc đối thoại đã chuyển đổi một cách bất ngờ. Người phụ nữ cắt ngang những lí lẽ của toà án, xưng mình bằng “chị” gọi Đẩu và Phùng bằng “chú”. Chị hai lần cám ơn các chú hiểu được hành động khuyên chị li dị chồng là lòng tốt của các chú. Người đàn bà hiểu những người nắm quyền lực và rằng những con người ấy không thể nắm được cái lí của kẻ làm ăn lam lũ cực nhọc. L.Tônstôi có nói: “Những nỗi đau khổ của những người ở trong lâu đài thường na ná giống nhau. Còn nỗi đau khổ của những nguời trong những túp lều thì muôn hình vạn trạng”.Ở đây, người đàn bà tha tội cho chồng, biết cảm thông với chồng. Chị hiểu mình và chồng cùng cảnh ngộ, cùng đồng bệnh đói nghèo lam lũ. Chị hiểu chồng mình không thích thú gì trong việc hành hạ vợ con nhưng quá quẫn bách phải có một đối tượng để trả thù. Hiển nhiên đối tượng ấy phải thoả mãn được cái nguỵ lí của người trong cuộc.

Người chồng đánh vợ rất kì dị. Cứ ba ngày một trận nhỏ, năm ngày một trận lớn. Mỗi lúc đánh vợ thì con người ấy rên rỉ, đau khổ. Nguyễn Minh Châu ví đó là cơn giận như lửa cháy… Như vậy nếu không đánh vợ, con người lam lũ dưới đáy này không thể đốt cháy được những uẩn ức bế tắc của cuộc sống. Người đàn bà hiểu được dù chồng có đánh đập mình thì giữa hai người vẫn có nghĩa vụ vợ chồng, hai người vẫn cố gắng làm cha làm mẹ với những đứa con. Bằng chứng là người chồng đã chấp nhận lời đề nghị của vợ là không được hành hạ nhau trước mặt các con.

Lí do mà người đàn bà không muốn bỏ chồng chính yếu nhất chính là đàn bà ở trên thuyền rất cần một người đàn ông “chèo chống lúc phong ba”. Không có chồng, người mẹ khốn khổ ấy không đủ khả năng để nuôi một đàn con khôn lớn…

Đáng nói là, trong cội rễ sâu xa, người đàn bà này vẫn luôn trân trọng những giá trị mà chồng đã mang đến cho mình. Họ đến với hôn nhân bằng một mối tình quê chân thực, có ân nghĩa. Chàng trai cục mịch hiền lành thường đến trao đổi, bán lưới ở nhà cô gái. Chàng trai đã chấp nhận người mà tạo hoá đã làm cho xấu xí bằng khuôn mặt rỗ. Trong bất hạnh nhưng người đàn bà khi kể về những năm tháng vợ chồng hạnh phúc, vẫn ánh lên những niềm vui làm rạng rỡ khuôn mặt chị. Đó là lúc lũ con cùng gia đình ấm êm hạnh phúc. Vui nhất là những ngày chị thấy đàn con ăn no, ăn ngon. Như vậy chính trái tim mẫu tử ở trong người đàn bà này đã tạo nên những lí lẽ mà “các chú” không sao hiểu được. Tình huống bất ngờ của truyện đã cho ta phát hiện lại bản chất của người phụ nữ. Chị sống không phải cho mình mà là cho con. Trong bất cứ hoàn cảnh tồi tệ nào, người phụ nữ Việt Nam cũng luôn trân trọng những giá trị tình người ít ỏi. Họ lấy đó làm năng lượng để đi tiếp con đường gian nan vất vả trước mắt. Người phụ nữ vô danh làm xúc động trong chúng ta tấm lòng từ tâm của người mẹ; tấm lòng vị tha của người vợ; đức tính lạc quan của người Việt Nam…

Việc từ chối “lòng nhân từ” của Đẩu và Phùng ở người đàn bà làng chài đã cho ta thấy lẽ đời đã thắng. Người lao động nghèo khổ không có quyền với ai trong xã hội nhưng cái tâm của một người biết thương con, của một người thấu hiểu lẽ tình đời là một quyền uy có sức công phá rất lớn. Nó đã làm cho chánh án Đẩu, người nghệ sĩ Phùng thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều sâu sắc. Câu nói nổi tiếng của Giớt “Mọi lí thuyết trên đời đều màu xám, chỉ có cây đời là mãi mãi xanh tươi” một lần nữa được chứng nghiệm sâu sắc qua hình tượng người đàn bà làng chài vô danh nhưng hoàn toàn không vô nghĩa trước cuộc sống này.

Đọc tiếp

Văn mẫu 12

“Bác ơi!” – Bản điếu văn bi hùng

Ngày mùng hai tháng chín năm một chín sáu chín, chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam đang diễn ra gay go ác liệt. Nỗi đau thương lớn lao, đột ngột với toàn dân tộc. Tin dữ đến với Tố Hữu khi ông đang nằm điều trị ở bệnh viện Việt Xô. Trời mưa tầm tã, ngôi nhà sàn vắng lặng, không khí bi thương bao trùm đã khơi nguồn cảm hứng cho bài thơ, khơi nguồn một tiếng khóc dài, một tiếng khóc lớn, một bản điếu văn bi hùng kết nối hàng triệu trái tim đang xúc động. Bài thơ được đưa vào tập Ra trận năm 1972.

Tựa đề bài thơ là một câu ngắn hai tiếng với dấu chấm than như một tiếng nấc nghẹn ngào đến tột đỉnh của nỗi đau thương. Nó là tiếng gọi thốt ra rất tự nhiên từ đáy sâu cảm xúc của tâm hồn như người ta vẫn gọi mẹ ơi! Cha ơi! Đây cũng là cách xưng hô quen thuộc tạo giọng điệu ân tình của Tố Hữu.

Tiếng khóc đau thương nặng trĩu bắt đầu bằng những lời tâm sự, giãi bày của con đối với cha:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa

Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa.

Hai câu đầu nói được vừa cụ thể vừa khái quát nỗi đau thương to lớn vô hạn đang bao trùm đất nước. Hiện thực trong những ngày diiễn ra lễ tang Bác trời mưa tầm tã, nhưng “tổn thất này thật là lớn lao, đau thương này thật là vô hạn” khiến cho nơi nơi, người người tuôn nước mắt, thiên nhiên, đất trời, cỏ cây, vạn vật cũng tuôn “nước mắt”. Có gì đau đớn hơn để nước mắt phải tuôn không dứt như thế? nước mắt của nhà thơ hoà trong nguồn nước mắt tuôn chảy ấy… Tố Hữu đã tất tưởi về thăm nơi Bác ở, về thăm lại nhà sàn… Động từ “chạy” biểu hiện cảm xúc cực kỳ đau dớn, đau đớn không thể tin, không dám tin. Từ được đặt đúng chỗ, hợp cảnh, hợp tình. Bước chân líu ríu, muốn nhanh cũng không được, vừa chạy vừa vấp ngã, đứng lên lại vấp ngã… Nước mắt nhà thơ ghìm trong hơi thở dồn dập, gấp gáp để mà hy vọng, để mà níu kéo… nhưng khi đối mặt với: “ướt lạnh vườn rau mấy gốc dừa” mới chợt vỡ oà trong đau đớn…

Dưới những trận mưa tầm tã bước chân, tư thế, dáng nhìn của nhà thơ đến nao lòng:

Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Các chữ: “lần”, “đến”, “đứng”, “nhìn” là những động từ liên tiếp diễn tả bước chân, tư thế, tâm trạng vội vã, ngơ ngác không thể tin được của nhà thơ. Lối sỏi quen sao lại phải “lần”? Có phải đau đớn tới mức không còn nhìn thấy? Dò dẵm từng bước vừa đi vừa khóc cho kịp đến bên nhà sàn quen thuộc? Trong ngày tang lễ Bác, Chế Lan Viên cũng tự đáy lòng thốt lên:

Ôi Tổ quốc trong giờ tang lễ

Đau núi sông cơn đau trời bể…

Rất trí tuệ nhưng cảm xúc thơ vẫn thiếu đi sự gần gũi chân tình.

Theo cái nhìn của tâm trạng đau buồn, cảnh vật cũng trở nên vắng lặng như ngơ ngác, thảng thốt trong nỗi mất mát lớn lao:

Chuông ơi chuông nhỏ còn reo nữa

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn.

Bác đã đi rồi sao Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời

Miền Nam đang thắng mơ ngày hội

Rước Bác vào thăm thấy Bác cười.

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in, mây trắng bay…

Chuông không còn reo, phòng lặng lẽ, đèn đã tắt, trái bưởi và hoa nhài trở thành lẻ loi vì không có người vun tưới… Những nhân hoá đã gợi lên nỗi đau thương thấm thía vào cảnh vật, gợi nên cảm giác về sự mất mát tê tái, bơ vơ của tác giả muốn được chia sẻ.

Đoạn thơ có sự ám ảnh giữa mơ và thực, một mặt không tin “Bác đã đi rồi” vì cách mạng miền Nam đang thắng lớn, Người đang lãnh đạo và mong ước có ngày vào thăm, mặt khác lại phải tin vì hiện thực “còn đâu bóng Bác” rất cô đơn.Cách gieo vần liền, vần cách, lối dùng vần mở, nửa mở, đóng vang, cách bố trí thanh trầm ở cuối các câu khiến cho phần đầu của bài thơ như một dòng tình cảm xót xa, tiếc thương tuôn chảy rất tự nhiên, rất chân thành. Nỗi đau thương cứ trĩu nặng mãi khi các chữ “Bác”, “Bác ơi”, câu cảm thán, câu hói được lặp lại nhiều lần.

Từ cảm xúc, mạch thơ đã chuyển sang lý trí, nhà thơ tiếp tục đúc kết giá trị đạo đức, tình thương, phong cách sống của Hồ Chí Minh. Con người ấy, tình thương ấy đã đạt đến độ quên mình:

Ôi phải chi lòng được thảnh thơi

Năm canh bớt nặng nỗi thương đời

Bác ơi tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu

Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ

Cho hôm nay và cho mai sau…

Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, luạ tặng già…

Phóng đại, hoán dụ đã tạo nên nhận thức: tình thương của Bác không bờ bến: “thương mọi kiếp người”, thương mọi lứa tuổi, thương mỗi cành cây ngọn cỏ. Tình thương ấy là sự chăm sóc rất đỗi ân tình:

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em thơ, lụa tặng già.

Tình thương biểu hiện thành “nỗi buồn”, “nỗi đau”, “nỗi lo”, “nỗi nhớ”, “niềm vui”, “tình yêu” trong tâm hồn Người. Bác lo cho dân, cho nước, cho nhân loại, nỗi lo thành nỗi đau, đau cho dân tộc, lo cho phong trào cộng sản quốc tế, lo cho hôm nay và lo cho muôn đời sau. Tác giả đã so sánh lòng Bác với dân với nước như lòng mẹ với con bao la bất tận là một sự liên tưởng thú vị tài tình. Nếu như câu thơ “Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ” là so sánh để giãi bày cảm xúc thì câu “Bác sống như trời đất của ta” lại được cô đúc đầy trí tuệ. Tố Hữu đã cảm nhận được điều bao trùm và hết sức cơ bản trong cách sống của Hồ Chí Minh: con người ấy đạt đến cái tự nhiên như trời đất, hoà đồng với tự nhiên, đã đạt đến cái cao sâu huyền diệu của sự sống. Rất hợp với giọng điệu ngợi ca, đoạn thơ có nhiều vần sáng, thanh điệu cao, nhiều so sánh, hoán dụ tạo liên tưởng phong phú bất ngờ. Hình ảnh Bác toả sáng cao đẹp. Niềm tự hào của nhà thơ dẫn cảm xúc, truyền cảm xúc tự hào cho người đọc không dứt…

Lời thơ tiếp tục khẳng định về niềm lạc quan, lẽ sống cao đẹp của Hồ Chí Minh bằng những suy tưởng, liên tưởng tài tình:

Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui mỗi mầm non trái chín cành

Vui tiếng ca chung hoà bốn biển

Nâng niu tất cả chỉ quên mình.

Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

Những câu thơ kết tinh, chiêm nghiệm sâu sắc về con người và phong cách sống của Bác. Đó là kết quả của sự am hiểu, gần gũi của tác giả về Bác suốt từ những năm kháng chiến ở Việt Bắc mà không một nhà thơ Việt Nam nào có được. Đoạn thơ đã khắc hoạ được chân dung một con người giản dị, thanh cao, vĩ đại. Con người không sống cho riêng mình “một đời thanh bạch” với chiếc áo ka ki bạc màu. Vẻ ngoài giản dị mà tâm hồn cao thượng không thể đo hết được. Bác sống giữa cuộc đời, trong muôn triệu con người đâu cần gì đến những tượng đồng ở khắp nơi. Bình dị là thế, cao đẹp cũng là thế, những so sánh tương phản đã diễn tả khá tài tình. Một nhà thơ Ấn Độ đã từng thán phục về Người: “Vị Thánh sống của muôn ngàn thánh sống, vị ân nhân của cả muôn người”.

Lời thơ lại trở về với cảm xúc tiếc thương nhưng bình thản, tự chủ, đau thương gắn liền với niềm tin, nhà thơ nguyện mãi mãi đi theo con đường mà Bác đã vạch ra:

Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu

Ra đi Bác dặn còn non nước

Nghĩa nặng lòng không dám khóc nhiều.

Bác đã lên đường theo tổ tiên

Mác Lê–nin thế giới Người hiền

Ánh hào quang đỏ thêm sông núi

Dắt chúng con cùng nhau tiến lên.

Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn

Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dãy Trường Sơn.

Đau thương nhiều, nhớ Bác nhiều, lại càng không thể quên làm theo di chúc của Người:

Còn non, còn nước, còn người

Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay.

Tình với Bác sâu nặng, nhưng nghĩa nước non vẫn trên đôi vai, phải nén đau thương lại. Nhà thơ thật tin ở chính mình khi nghĩ về Bác. Người là ánh sáng hào quang của sông núi dẵn dắt con thuyền Cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn. Nghĩ về Bác, Tố Hữu đã nói được cái chân lý lớn lao và quan trọng:

Yêu Bác lòng ta trong sáng hơn

Đó cũng là ý nghĩ để chân lý dân tộc, sức mạnh dân tộc, tinh thần dân tộc vững trãi như dải Trường Sơn, mãi mãi cao như ngọn Trường Sơn.

Bài thơ khép lại. Bốn mươi năm đã trôi qua, tiếng khóc lớn vẫn còn đó, một con Người vĩ đại vẫn còn đó. Bác ơi! đã thành tuyệt tác sống với thời gian, sống trong triệu triệu con người đất Việt. Bác ơi! là bản điếu văn bi hùng!

Chu Xuân Bình

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

Bình giảng bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị – Thiên; trường ca Mặt đường khát vọng được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng.

Mặt đường khát vọng là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị – Thiên – một điểm nóng – trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong bài Có một thời đại mới trong thi ca, Trần Mạnh Hảo viết:

Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 – 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt.

Đất nước – là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng dài 110 câu thơ (trong “Ngữ văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về đất nước trong cội nguồn sâu xa văn hoá – lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về đất nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện đất nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc – nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V Đất nước là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.

Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương Đất nước thể hiện cảm nhận: Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

(…)

Làm nên đất nước muôn đời…

Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ “đất nước” và “nhân dân” đều được viết hoa, trở thành “mĩ từ” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về đất nước và nhân dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng – phân – hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.

1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,… đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của đất nước” được diễn đạt một cách “mềm hoá” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.

2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.

Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm

Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm – Đất nước là nơi ta hò hẹn – Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của đất nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hoà, nồng thắm” với tình yêu quê hương đất nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:

Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…

Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những lần trốn học bị đòn roi.

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi

(Giang Nam)

Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích trăm trứng: “Đất là nơi Chim về – Nước là nơi Rồng ở – Lạc Long Quân và Âu Cơ – Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng – Những ai đã khuất – Những ai bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hoà, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất nước vẹn tròn, to lớn”.

Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất nước hài hoà nồng thắm…”. “Đất nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hoà, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.

Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.

Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:

Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời…

“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về đất nước: “Đất nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

Nuôi lớn người từ ngày mở đất,

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng

(Bài thơ của một người yêu nước mình, 19/12/1967)

Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải biết hoá thân…” thì mới có thể “Làm nên đất nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.

Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất

(Trần Vàng Sao)

Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông

(Chế Lan Viên)

Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.

“Em ơi em, đất nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hoà bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên đất nước muôn đời”, đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hoá thân” cho đất nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu đất nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

Bình giảng bài thơ “Sóng”

Nếu như Xuân Diệu đã từng thổn thức vì tình yêu, dâng hiến trọn đời cho tình yêu, chạy vội với thời gian để được yêu thì Xuân Quỳnh cũng thế, cũng từng thấp thỏm, lo âu, đau khổ vì yêu. Nhưng dù sao đi nữa, là phận nữ nhi nên người rất ít tỏ ra táo bạo, quá mạnh dạn như Xuân Diệu. Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thường bắt gặp hình ảnh con sóng, chiếc thuyền nói hộ tình yêu… Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng đây chỉ là những chất liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song lại chứa đựng biết bao là ẩn ý, biết bao là ẩn tình mà Xuân Quỳnh muốn bày tỏ. Chúng ta đã đến với Sóng của Xuân Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị nhớ của một người phụ nữ đang yêu. Người ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Vâng! Quả đúng như thế, tình yêu chưa bao giờ đi theo một hướng xác định. Cũng có lúc, người ta nhìn nhận tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha, có khi nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Thì đây, trong bài thơ này, tình cảm của nhân vật “Em” cũng biến thiên như thế!

“Sóng” là thơ ngụ ngôn, một thể thơ rất phù hợp để kể về một huyền thoại tình yêu đầy ăm ắp những tâm trạng khắc khoải, những cung bậc tình cảm và vì thế bài thơ dễ dàng được phổ nhạc. Sóng! – là một hình tượng ẩn dụ, là phương tiện bộc lộ tình cảm của nhân vật “Em”:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sóng không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Bồi hồi trong ngực trẻ

Một câu chuyện cổ tích về tình yêu được nhà thơ Xuân Quỳnh kể lại. Câu chuyện bắt đầu từ một con sóng nhỏ chẳng biết xuất phát từ đâu, sóng hiện ra như một con người có nội tâm nhiều biến động. Hai trạng thái tâm hồn đối lập nhau, giằng xé nhau, buồn vui lẫn lộn. Sóng chẳng hiểu tại sao mình lại cứ “dữ dội” rồi “dịu êm”, “ồn ào” rồi “lặng lẽ”. Phải chăng sóng đang yêu, yêu âm thầm, lặng lẽ? Vâng! Một tình cảm đang rạo rực trong trái tim người con gái, làm sao ai có thể “định nghĩa được tình yêu”. Một buổi chiều mộng? Một lần gặp gỡ? Một phút xao động trong tâm hồn? Người con gái hay chính nhân vật “Em” trong bài đang cố tìm câu giải đáp cho tình yêu, cho sự bâng khuâng, đối lập của lòng mình. Và rồi chỉ còn một lối thoát: con sóng phải tìm ra tận bể cũng như “Em” đi tìm nguồn gốc của tình yêu.

Tâm hồn con người là một cõi mênh mông vô tận. Làm sao ta có thể đi xuyên suốt hết cái cõi vô tận ấy. Và ngay chính trong lúc cõi lòng đang bùng lên ngọn lửa yêu thương thì cô gái trẻ lại càng trăn trở, bâng khuâng, khắc khoải, dằn vặt với chính lòng mình. Phải vượt khỏi cái giới hạn chật hẹp này, phải lao mình vào chân trời bao la, những miền vô tận để hiểu rõ lòng mình. Con sóng đã rời bờ ra đi, đi thật xa, cố tìm hiểu và soi mình với những con sóng khác để biết được sự huyền diệu của tình yêu, mà hiện tại đối với sóng vẫn còn là một bí mật. Tình yêu là gì ư? Một nhà thơ Pháp đã từng khẳng định: “tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”. Và thế rồi con sóng vẫn đi tìm mãi, tìm mãi:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Tình yêu cũng như con sóng, vẫn vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng nói:

Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo

Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu

Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực niềm yêu thương chất sống. Chính vì thế, mà cái khát vọng tình yêu cứ bồi hồi trong ngực trẻ, nó cứ thúc đẩy tuổi trẻ đi tìm chân lý yêu đương, cũng như con sóng “ngày xưa và ngày sau vẫn thế”.Tuy nhiên, câu thơ “bồi hồi trong ngực trẻ” là một câu thơ chưa chín.Thật ra ngực trẻ hay ngực già… đều nồng nàn và bồi hồi trước tình yêu. Song, sóng và em cứ tìm mãi mà chẳng hiểu mình, chẳng thể hiểu được tình yêu. Sóng chính là điển hình của sự nhận thức về cái “quy luật” không thể cắt nghĩa được tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Sóng bắt đầu từ gió – Vâng! Gió bắt đầu từ đâu? Tình yêu bắt đầu từ đâu? –“Em”cũng không biết nữa. Đọc những câu thơ này, ta chợt hình dung cái lắc đầu nhè nhẹ như một sự bất lực của cô gái. Trong khi người con gái cố đi tìm cội nguồn tình yêu thì tình yêu trở thành trò chơi ú tim, không tài nào nắm bắt được. Và thế là, muôn đời tình yêu vẫn là sự bí hiểm. Tình yêu của “Em” giờ đây trở thành nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó choáng đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải dài trong mọi thời gian. Phạm Đình An đã nhận xét: “Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở mức độ yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hạnh phúc, tình yêu gắn bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều chứng minh của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm”. Chính vì thế mà tình yêu của người “Em”. Ở đây có thể nói không còn bồng bột mà khá chín chắn, có sự can thiệp của lý trí, có ý thức về mặt tình cảm. Ấy thế mà trong lòng người con gái vẫn trỗi dậy mãnh liệt một nỗi nhớ muôn hình, muôn sắc:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Nỗi nhớ của “Em”, của tình yêu dữ dội được khởi đầu từ những cái cao cả lớn lao, không tủn ngủn và tầm thường chút nào! Nỗi nhớ ấy da diết, cuốn lấy tâm hồn người con gái! Với Xuân Quỳnh là thế: mọi con sóng đều có bờ, mục đích là vỗ vào bờ, nên khi sóng xa bờ thì phải nhớ bờ, ngày đêm không ngủ được. Cũng như sóng, nỗi nhớ về “Anh” vẫn dào lên mãnh liệt:

Lòng em nhớ đến – Anh

Cả trong mơ còn thức

Tình yêu đến, tình yêu mang theo một nỗi nhớ vô bờ đến với “Em”, choáng ngợp tâm hồn “Em”. Tình yêu đã trở nên đậm đà đến thế, và nỗi nhớ lại càng da diết miên man. “Có không gian nào dài hơn chiều dài nỗi nhớ, có một khoảng mênh mông nào sâu thẳm hơn tình yêu…”. Vâng! Làm sao đo được nỗi nhớ, làm sao đo được tình yêu! “Em” vẫn nhớ đến “Anh”, chỉ nhớ về phương anh mà thôi:

Dẫu xuôi về phương

Bắc Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương

Tình yêu thật huyền diệu! Điều đáng nói là “Em” biết chủ động, biết gửi trao nỗi nhớ về hướng xác định: Phương anh! – Phương của tình yêu: “rợp trời thương ấy mấy màu xanh suốt, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh…”. Tình yêu của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu thuỷ chung và trọn vẹn. Song, để toàn vẹn mối tình ấy, con sóng phải vượt qua muôn ngàn cách trở:

Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở

Con sóng muốn tới bờ, phải vượt qua bao giông tố, bão bùng. Em muốn hướng về anh, phải vượt qua bao cạm bẫy cuộc đời. Suy cho cùng, tình yêu phải cần thử thách tôi luyện mới thấy rõ giá trị thực sự của nó. Tình yêu muốn tồn tại cũng phải có sự ra đi và trở lại, phải có sự dồi lên, lắng xuống để cuối cùng trở về với tình yêu hồn nhiên thuở đầu. Chính tình yêu của anh đã giúp cho em vượt qua tất cả, đón nhận một tình yêu vĩnh cửu – tình yêu lớn lao và cao thượng, không mang màu sắc vị kỉ, riêng rẽ mà là hoà trong cái chung và ở trong cái chung mênh mông ấy, cái riêng sẽ tồn tại mãi mãi:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Tình yêu sẽ trưởng thành đằm thắm hơn và sẽ vĩnh hằng trong cái đẹp của tạo hoá. Bài thơ kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng của tình yêu vẫn còn vướng đọng đâu đây. Bài thơ thành công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng “Sóng” mà còn bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao khát tình yêu của một nhà thơ nữ. Đây chính là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt nam. Trong rất nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh toả ra một hương thơm riêng, một cách cảm nhận riêng về sóng – biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi mãi.

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

Bình giảng bài thơ “Việt Bắc”

Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương; bằng lối xưng hô Mình – Ta, một lối xưng hô truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện một cách chân thực và sinh động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng của cuộc kháng chiến, cùng những tình cảm điển hình của con người kháng chiến.

Bài thơ ra đời vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Bài thơ vừa là khúc hát ân tình thuỷ chung của miền ngược và miền xuôi, vừa là bài ca chiến thắng của một thời kỳ lịch sử oanh liệt. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần đầu, tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người.

Bài thơ mở ra trong một khung cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng bồn chồn lưu luyến vấn vương của hai người đã từng gắn bó bền lâu sâu nặng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn tình nghĩa.

Mình về mình có nhớ ta

Nhìn cây nhở núi, nhìn sông nhớ nguồn

Nhưng người ra đi cũng cùng chung một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ là hướng về người khác má cũng là nỗi nhớ chính mình: “Mình đi mình lại nhớ mình”. Lời hỏi của người ở lại đã làm khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy. Đối đáp ở đây là một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở người về là nỗi nhớ cứ thấm đượm lên tất cả, lan toả lên cả cỏ cây mây nước. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ “nhớ”. Nỗi nhớ tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Và trong niềm hoài niệm, hối tưởng suốt “mười lăm năm thiết tha mặn nồng” ấy, bao trùm có mấy bức tranh hiện thực hoà nhập thống nhất khó có thể tách rời. Đó là nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa; nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc; con người, cuộc sống Việt Bắc, cùng những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.

Trước hết bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình chung thuỷ, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tìm mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ người

Lời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và cùng ân tình, thuỷ chung biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ“nhớ” một chữ “ta” hoà quyện quấn quýt với nhau như hình với bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thuỷ chung ấy thêm sâu nặng.

Sau khúc hát dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi như là một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết thiết tha của ai đó “Tiếng ai tha thiết bên cồn”; có bước chân “bồn chồn” và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối “bâng khuâng… bồn chồn” đã làm tăng thêm biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Cái màu “áo chàm” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm: màu áo của người Việt Bắc không phai, đậm đà bền vững như lòng thuỷ chung sắt son của họ. “Cầm tay… hôm nay” không phải là không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời.

Sau khi “dàn cảnh” khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại lên tiếng. Chỉ có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn “trứng nước” rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình: “Miếng cơm chan muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. “Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ thực tế cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Hình ảnh “mối thù nặng vai” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết hợp với nhau tạo nên một ý nghĩa mới: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù. Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt Bắc với những địa danh cách mạng lịch sử, với biết bao gian nan cơ cực mà thắm thiết nghĩa tình “Hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son” rồi những mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được tất cả cái khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến. Trong một đoạn thơ ngắn mà đà cố đến 8 chữ “mình” và 7 chừ “nhớ”, trong đó có câu thơ 3 chữ “mình” luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa danh cách mạng từ nay đà di vào lịch sử nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa…

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Tố Hữu đã để cho người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao nồi nhớ về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng “đinh ninh lời thề” sau trước có nhau, nên câu trả lòi của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Những chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì người ra đi có ngay lời đồng vọng “mình đi, mình lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hoà, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.

Qua hoài niệm, trái tim người ra đi cứ dào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nương

Có nơi nhớ ấm áp:

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thường đi về

Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở “hàn vi” thắm tình đồng chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:

Ta đi, ta nhớ những ngày

Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi



Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Củ sắn lùi thì “chia”, bát cơm thì “sẻ”, chăn sui thì “đắp cùng”. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son thấm thía trong khó khăn thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn “bản khói cùng sương” thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó với “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”, thì ấm áp hẳn lên. “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” chỉ là những tên gọi địa danh, nhưng khi kèm với hai chữ “vơi đầy”, thì cảnh bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người.

Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bắc một tình cảm đặc biệt. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.

Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng…

Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào

Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp da dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiền nhiên gắn với bóng dáng con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

….

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Tố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo nên một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và rất sinh động đa dạng: Khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ sinh động hơn.

Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị cho cuộc tổng phân công bằng một chiến dịch “Điện Biên lừng lẫy địa cầu”:

Những đường Viết Bắc của ta

….

Đèn pha bột sáng như ngày mai lên

Đoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm màu sắc sử thi. Giọng thơ dào dạt sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng.

Những câu thơ tái hiện khung cảnh “Trung ương Chính phủ luận bàn việc công” trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chi huy của cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật lên hình ảnh lung linh rực rỡ ngời sáng của “Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng”.

Phần thứ nhất của bài thơ được khép lại bằng sáu câu thơ thâu tóm hình ảnh Việt Bắc: “Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà”, đầu nào của cuộc kháng chiến; Việt Bắc là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là đối với những nơi còn “u ám quân thù; đau đớn giống nòi”, thì Việt Bắc là điểm tựa tinh thần đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến.

Qua bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thuỷ chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.

(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)

Tiếp tục đọc

Văn mẫu 12

Bình giảng đoạn thơ thứ 2 trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm

Đất là nơi anh đến trường



Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.

Bài làm

Đất nước là chương năm của trường ca Mặt đường khát vọng mà Nguyễn Khoa Điềm đã viết ở chiến khu Trị Thiên trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Qua phần thơ này có thể thấy được những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về đất nước trong chiều sâu cảm xúc suy nghĩ và trong sự gắn bó thân thiết với cuộc đời mỗi người. Đặc biệt là đoạn trích:

Đất là nơi anh đến trường

….

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

đã thể hiện tập trung những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ khi thể hiện những khám phá mới mẻ về đất nước mình.

Tiếp nối những suy nghĩ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã táo bạo khi đưa ra định nghĩa về Đất Nước được tạo thành bởi hai yếu tố thời gian và không gian. Đó chính là đất và nước. Khi đi vào tìm hiểu, chính tư duy nghệ thuật của nhà thơ đã dẫn đến những liên tưởng bất ngờ khi ông định nghĩa về đất nước:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con đường hàng ngày đến trường với bao trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè. Còn nước “là nơi em tắm”. Nó cũng gắn với kỉ niệm tuổi thơ em, một kỉ niệm êm dịu và nhẹ nhàng như những dòng sông em thường tắm mát. Những kỉ niệm ấy, tất cả hợp lại thành đất nước, thành “nơi ta hò hẹn”. Khi cả anh và em cũng trưởng thành, tình yêu kết dính giữa anh và em thành một mối khăng khít, không tách rời. Và đến đây, đất nước không còn tách riêng mà hoà hợp với nhau. Và điểm hẹn hò giữa anh và em cũng chính là ở bắt đầu của tình yêu đất nước. Tình yêu cá nhân, tình yêu thiêng liêng giữa anh và em đã to lớn và nó hoà vào tình yêu đất nước. Hay đất nước bắt nguồn từ tình yêu nam nữ. Tiếp tục mạch thơ ấy, Nguyễn Khoa Điềm đi đến khẳng định Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Nỗi nhớ thầm kín, da diết của em, nỗi nhớ ấy đã gắn kết tình yêu anh và em, nỗi nhớ cũng nuôi lớn tình yêu hai chúng ta và nỗi nhớ ấy cũng hoà vào đất nước, gắn kết đất nước lại thành một mối khăng khít, bền chặt. Có nỗi nhớ tình yêu, có nỗi nhớ đất nước.

Nguyễn Khoa Điềm đã đưa khái niệm đất nước từ sự kết hợp của tình cảm cá nhân nam nữ riêng tư, từ sự tách riêng để đi đến cái khái quát, nâng lên rộng hơn:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông mong nước biển khơi”

Từ tình cảm riêng tư, tác giả đi đến định nghĩa đất nước là nơi dân mình đoàn tụ, sinh sống, Từ cá thể anh, em đã đi đến cái chung, cái lớn hơn là dân mình, là đồng bào.

Tác giả đã mở ra một không gian, một thời gian theo chiều dài từ quá khứ nghìn xưa.

Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Và kết lại “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Tác giả còn ngầm chỉ rõ yếu tố tạo nên sự gắn kết giữa các cá nhân, từ những con người đơn lẻ gắn kết lại thành nhân dân. Sự gắn kết ấy, sợi dây vô hình ấy chính là tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Nó tạo nên sức mạnh kì diệu, liên kết mọi người lại, từ cái tôi đã hoà vào thành cái “ta” chung, cái “ta” của dân tộc, của đất nước trên cả hai phương diện địa lý và lịch sử.

Và nó trở lại kết cấu:

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Tách riêng từng yếu tố để chứa đựng một huyền thoại xưa. Hình ảnh “chim về” chính là nơi sinh sống của người mẹ Âu Cơ với 50 người con trên rừng. Còn nước lại là nơi Lạc Long Quân sinh sống cùng 50 người con. Nó kết lại thành câu chuyện truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Hay nói cách khác là nguồn gốc của dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các anh em dân tộc sinh sống trên mảnh đất Việt Nam đều là anh em với nhau, đều do một mẹ sinh ra.

Đoạn trích ngắn gọn chỉ 13 câu nhưng đã đưa ra được 3 khái niệm khác nhau về đất nước với 3 lần cảm xúc khác nhau nhưng đều thống nhất trong sự chuyển hoá từ cái riêng đến cái chung, từ bộ phận đến khái quát, nâng lên để chúng hoà quện, kết dính lại với nhau làm nên đất nước trong chiều dài và chiều sâu của lịch sử, của truyền thống văn hoá.

Đoạn trích ngắn gọn, lời thơ khúc chiết đã nói lên một cách nhìn mới, nhận định mới của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Sự kết hợp hài hoà giữa cảm xúc sâu lắng cùng với nhìn nhận mới mẻ, đúng đắn đã làm nên giá trị của đoạn thơ.

(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)

Tiếp tục đọc

Xu hướng